Góc sưu tầm Văn, Thơ : Văn học nghệ thuật « previous next »
Trang:  1  Send the topic Print
DỤNG LÝ VÔ THƯỜNG VÀO CUỘC SỐNG (st)  [Xem 1255 lần]
EastWind





View Profile E-Mail
DỤNG LÝ VÔ THƯỜNG VÀO CUỘC SỐNG (st)
October 10, 2008, 10:20 AM

I. VÔ THƯỜNG LÀ MỘT LẼ THẬT:

Nói đến vô thường thì Ä‘a số người học Phật đều biết, đều hiểu: thế gian vô thường, cõi đời tạm bợ, nghe quá thường. Song người cảm ngá»™ sâu vô thường, có nhiều chăng? Ứng dụng vào cuá»™c sống thế nào má»›i thiết thá»±c? Đây má»›i là Ä‘iều quan trọng. 

TrÆ°á»›c khi Ä‘i sâu vào vấn đề, để xác định lòng tin vững chắc, má»—i người chúng ta hãy xét rõ lại xem, lý vô thường có từ bao giờ? Ai lập ra? Nhiều thÆ¡ văn cho là tạo hóa gây ra, nhÆ° bài thÆ¡ Thăng Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan đã nói: “Tạo hóa gây chi cuá»™c hí trường”. NhÆ°ng có phải là tạo hóa gây ra chăng? Má»™t LẼ THẬT mà do tạo ra, tức là cái má»›i có rồi. Nếu vô thường là do tạo hóa tạo ra hoặc do Phật lập thành chẳng hạn, vậy trÆ°á»›c đó là không có vô thường, thì sao gọi là chân lý xÆ°a nay được? Và sao có người tu hành? Lẽ thá»±c thì có chúng sanh là có vô thường, không do ai tạo ra, khong phải cái má»›i có, Phật cÅ©ng chỉ là người giác ngá»™ rõ lý vô thường và chỉ dạy lại cho chúng sinh hiểu thôi. 

Bởi có vô thường má»›i có khổ, cÅ©ng nhÆ° mọi thứ khổ đều từ vô thường mà thành. NhÆ° sinh, do vô thường nên có già, có bệnh, có chết. Mong cầu muốn nhÆ° ý mà vô thường nên không nhÆ° ý, thÆ°Æ¡ng yêu muốn gần gÅ©i mãi nhÆ°ng vô thường nên phải xa lìa, người oán ghét không muốn gặp nhÆ°ng vô thường nên lại phải gặp, do đó mà có khổ. Có khổ má»›i có Tập là nhân của khổ, tức những phiền não tham, sân, si... 

Từ trong vô thường Ä‘au khổ ấy mà giác ngá»™ tìm đường giải thoát, dứt cái nhân ấy thì được an vui hết khổ, đó là Diệt. Song muốn được diệt khổ thá»±c sá»± thì phải có con đường tu đúng đắn chân thật, không phảo chỉ nói suông, hiểu suông trên lý thuyết mà được. Con đường đó là Đạo. Tức từ vô thường mà có Tứ Đế, là bốn Ä‘iều chắc thật Phaatj đã nói trong bài pháp đầu ở Lá»™c Uyển. 

Thá»±c tế, dù có Phật hay không có Phật, há»… ai đã sinh ra thì phải có chết, cái có tạo ra thì phải có cái hoại diệt, có làm thành thì phải có biến đổi... Nói chung, tất cả pháp hữu vi đều vô thường. Bài kệ Kinh Kinh Cang đã nói: 

                        Nhất thiết hữu vi pháp,
                        NhÆ° má»™ng, huyá»…n, bào, ảnh,
                        NhÆ° lá»™ diệc nhÆ° Ä‘iện, 
                        Ưng tác nhÆ° thị quan. 

        NghÄ©a: 

                      Tất cả pháp hữu vi, 
                      NhÆ° má»™ng, huyá»…n, bọt, bóng, 
                      NhÆ° sÆ°Æ¡ng cÅ©ng nhÆ° chá»›p, 
                      Phải nên quán nhÆ° thế. 

Pháp hữu vi tức là pháp có làm ra, có tạo thành. Cái gì có tạo tác, làm ra, được thành... đều thuá»™c vô thường không bền chắc. Dù lý luận giỏi cÅ©ng không tránh khỏi vô thường. Đó là má»™t lẽ thá»±c muôn thưở. Ngài Hàn SÆ¡n có má»™t bài thÆ¡: 

                        Hoa đào sắp sang hạ 
                        Trăng gió giục không thôi. 
                        Tim hỏi người thời Hán 
                        Không còn được má»™t người. 
                        Sáng sáng hoa rÆ¡i rụng 
                        Năm năm người đổi đời. 
                        Hôm nay bụi tung đấy 
                        XÆ°a kia là biển khÆ¡i. 
 
                        (Đào hoa dục kinh hạ 
                        Phong nguyệt thôi bất đãi 
                        Phong mích Hán thời nhân 
                        Năng vô nhất cá tại 
                        Triêu triêu hoa thiên lạc 
                        Tuế tuế nhân di cải 
                        Kim nhật dÆ°Æ¡ng trần xứ 
                        Tích thời vi đại hải).

Hoa đào sắp sang hạ là báo hiệu thời tiết nở khoe sắp hết, má»—i cÆ¡n gió thổi qua là mang theo từng cánh hoa rụng, không thể giữ mãi trên cành. Bao nhiêu người thời Hán, thời Trần... hiện nay tìm hỏi xem, còn được má»™t ai? Má»—i buổi sáng, hoa cÅ© trên cành đã rụng dần, rụng dần không còn nhÆ° trÆ°á»›c. Má»—i năm, má»—i năm con người đã đổi thay, đã chuyển dời, năm nay không giống nhÆ° năm qua. Hôm nay nÆ¡i này bụi xe khói mù, người vạt đông đúc, xÆ°a kia chính đây là biển khÆ¡i. “Thế gian biến cải vÅ©ng nên đồi”. Lẽ thật của cuá»™c đời là nhÆ° thế. Từ ngàn xÆ°a mãi đến ngàn sau không hạn cuá»™c ở thời gian nào. Vì vậy có câu: “Bãi biển nÆ°Æ¡ng dâu”, má»—i người cần nghiệm kỹ! 

II. RÕ VÔ THƯỜNG LÀ LÝ CHUNG CỦA TẤT CẢ 

Vô thường là má»™t lẽ thật chung cho tất cả thế gian, không phải của riêng ai, không phải của người này mà không của người kia. Người học Phật quán sâu, thấy rõ Ä‘iều ấy sẽ cởi mở được nhiều Ä‘au khổ trong cuá»™c sống. Trái lại, cứ tưởng nó là của ai, thuá»™c về người khác không dính dáng gì tá»›i mình, khi nó đến bất ngờ chịu không nổi, sẽ bứt tóc, đập đầu, đấm ngá»±c than khóc kêu trời! Bởi do không có chuẩn bị trÆ°á»›c. 

Có câu chuyện thời Phật, lúc Ngài ở tỉnh xá Kỳ Hoàn, bà KISA-GOTAMI chỉ có đứa con yêu quý bá»—ng chết Ä‘i. Bà chÆ°a bao giờ thấy cái chết nên khi người ta mang thấy đứa bé Ä‘i thiêu, bà không cho, tưởng là nó còn sống. Bà bế thấy chết trên hông, chạy từ nhà này tá»›i nhà khác cầu thuốc cứu con. Có người hiểu, chỉ cho bà đến gặp Phật. Phật bảo bà: 

- Người hãy Ä‘i tìm má»™t lon hạt cải trắng (có chá»— nói má»™t ít nhang) của nhà nào từ trÆ°á»›c đến giờ chÆ°a có ai chết Ä‘em về đây, ta sẽ chữa cho. 

Bà Ä‘i khắp từ sáng đến chiều, hỏi nhà nào cÅ©ng có người thân chết. Cuối cùng mệt mỏi, bà chợt hiểu ra, người chết quá nhiều hÆ¡n người trong làng, không riêng con bà, không phải má»™t mình bà chịu sá»± vô thường đó. Bà liền cảm thấy nhẹ bá»›t và đếm thây con vào rừng, rồi trở về gặp Thế Tôn. Ngài hỏi: 

- NgÆ°Æ¡i có tìm được lon hạt cải trắng chăng? 

Bà thÆ°a: 

- Bạch Thế Tôn, không. Làng nào cÅ©ng có người chết nhiều hÆ¡n người sống. 

Nhân đó Phật dạy: 

- Thật hão huyền, nếu người cho rằng chỉ mình người mất con. Ai cÅ©ng chịu ĐỊNH LUẬT BẤT BIẾN đó là: “Thần chết nhÆ° má»™t dòng nÆ°á»›c lÅ©, cuốn trôi hết thảy mọi chúng sinh ra biển hoại diệt, trong khi đó, lòng tham đắm của họ vẫn chÆ°a thỏa mãn”. Thế Tôn liền nói kệ: 

                Người tâm ý đắm say 
              Con cái và súc vật 
              Tá»­ thần bắt người ấy 
              NhÆ° lụt troi làng ngủ. 

Cuối bài kệ bà chứng quả Tu đà hoàn. (Tích Truyện Pháp Cú) 

Ban đầu, bà Ki-sa tưởng nhÆ° sá»± vô thường chỉ đến vá»›i mình, riêng má»™t mình bà phải chịu, và đó cÅ©ng là việc bà không bao giờ nghÄ© tá»›i, mà bất ngờ nhÆ° thế! Phật khéo léo giúp cho bà thức tỉnh, thấy rõ những người chung quanh cÅ©ng từng chịu chung cái khổ đó, đâu phải chỉ riêng bà, khiến bà tỉnh ngá»™. 

Bơi thông thường người cứ tưởng đời là êm ả, là mùa xuân, là nắng ấm, là bài thơ..., còn tai nạn vô thường không can hệ đến mình, bất ngờ gặp phải, tưởng chừng như không bao giờ có, nên tinh thần bị suy sụp nặng, thật đau khổ! Đó là sống với ảo tưởng nhiều, khi sự thực đến không giống như vậy, khó nhẫn chịu được.

Điểm kế là, tưởng nhÆ° vô thường quá bất công, chỉ đổ ập lên đầu mình, lá»±a riêng mình mà tìm đến, khiến má»™t mình ta phải chịu, do đó mình cảm thấy tủi nhục, hận đời và tràn đầy Ä‘au khổ... Giờ đây được Phật dạy, hiểu rõ ra chính đó là má»™t lý chung cho tất cả: Ai sinh ra đời đều mang BẢN ÁN VÔ THƯỜNG đó hết. Mình liền cảm thấy có phân an ủi, hóa ra còn có nhiều người đồng cảnh ngá»™ vá»›i ta! Cái khổ này được chia đều vá»›i tất cả, không phải chỉ má»™t mình ta! Liền thấy bá»›t khổ. NghÄ©a là đã có người cùng chia sẻ vá»›i ta. Đó là LÝ CHUNG CHO TẤT CẢ. 

Song tiến thêm má»™t bÆ°á»›c, theo tinh thần nhà Thiền thì có khác. NhÆ° câu chuyện: Có bà già đến hỏi Hòa thượng Triệu Châu: 

- Con mang thân nữ này bị năm dây ràng buá»™c, gây chÆ°á»›ng ngại cho Phật tính, làm sao thoát ly những phiền trược ấy? 

Triệu Châu bảo: 

- Bà hãy nguyện cho tất cả mọi người đều sinh lên cõi trời, còn thân hèn hạ này nguyện tiếp tục trầm luân má»™t mình trong biển khổ. 

Người nghe có thấy lạ chăng? Tại sao bà muốn hết khổ, mà Hòa thượng Triệu Châu lại bảo chịu khổ? Đây là má»™t ý nghÄ©a rất sâu xa: Chính tâm rá»™ng lá»›n vô ngã quên mình vì người khác, tức hết khổ. Sở dÄ© chúng ta cảm thấy khổ nhiều, vì quá nghÄ© về mình, nên thấy mình thiệt thòi, mình bị chèn ép, mình bị đày đọa, bất công... Nếu QUÊN MÃŒNH, không thấy có ta thì còn AI để khổ ? Lý giải thoát là ngay đó! 

Đây chính là tinh thần vô ngã của Bồ Tát, là thuốc trị tận gốc khổ cho chúng sinh, không phải muốn cho mọi người cùng chia khổ vá»›i mình, mình má»›i bá»›t khổ. 

III. BIẾT VÔ THƯỜNG THÔI LÀM KHỔ THÊM CHO NHAU

Người hiểu đạo, quán kỹ, thấy rõ thế gian đều vô thường tạm bợ, cuá»™c sống là mỏng manh không bền chắc, từ thân, tâm cho đến sá»± vật đều luôn dời đổi vô thường. Thân thì nÆ°Æ¡ng bốn đại: Đất, nÆ°á»›c, gió, lá»­a hòa hợp tạm thành, mạng sống rút ngắn từng giờ từng phút. Tâm thì mừng giận yêu ghét... thay đổi không dừng. Hôm nay anh là bạn thân, ngày mai lại hết thân, đó cÅ©ng là chuyện thường vì TÂM NGƯỜI VÔ THƯỜNG. Sá»± vật thì có thành hoại, có nở tàn, có tròn khuyết... Kinh Kim Cang nói: “Cái gì có tưởng đều hÆ° vọng”. Vậy thì ở trong tranh giành hÆ¡n thua má»™t chút, rồi buông tay nằm cứng Ä‘Æ¡, bỏ lại tất cả, có được gì? Sao lại làm khổ thêm cho nhau? 

Kinh Pháp Cú Thí Dụ có bài Kinh:Phật ở vườn Trúc, nước La Duyệt Kỳ. Hôm ấy thọ trai xong, trở về, giữa đường gặp một người lùa bầy bò mập béo, chúng chạm sừng, đấu húc, nhảy múa, Phật bèn nói ba bài kệ:

                        NhÆ° người Ä‘uổi bò kia 
                        Nuôi bò để ăn thịt 
                        Nuôi mạng để làm gì?
                        Để cấp cho già chết

                                *** 

                        Trăm năm chẳng có má»™t 
                        Họ hàng nam cùng nữ 
                        Của cải nhiều tích trữ 
                        Không vật nào không mất 

                                    *** 

                        Sống má»™t ngày má»™t đêm 
                        Họ hàng nam cùng nữ 
                        Mạng tá»± gọt, tá»± chuốt
                        Còn gì? Cái giếng không! 

Về Trúc Lâm, tôn giả A Nan bạch Phật về ý nghĩa ba bài kệ. Phật dạy:

- Bầy bò đó, trÆ°á»›c đây cả nhàn con, được người nuôi mập béo, rồi làm thịt bán. Đến nay chỉ còn phân ná»­a, mà chúng nó có biết, cứ lo vui vẻ nhảy múa, đấu sừng, la rống. Thấy vậy Ngài thÆ°Æ¡ng hại mà nói lên ba bài kệ ấy. 

Phật lại so sánh với người đời:

- Họ cứ chấp có ta, dốt về lẽ vô thường, lo ăn uống, ngủ nghỉ, nuôi dưỡng thân mình cho khoái tâm vừa ý, là nuôi giặc mà không hay. Vô thường chá»±c sẵn đó, chết đến không kỳ hạn, thế mà mờ tối chẳng biết, so vá»›i bày bò có khác gì! 

Theo đây nhìn lại chúng ta có sống như vậy chăng? Vô thường già chết luôn chực sẵn một bên, mỗi ngày qua là mạng sống đã giảm dần theo; một năm qua tuy lớn lên một tuổi nhưng thực ra là gần cái chết thêm một đoạn. Vậy mà người đời không hiểu, cứ ở trong đó vui theo dụclạc, rồi giành giựt, chém giết làm khổ thêm cho nhau. Người hiểu đạo, xét thấy ai ai cũng đang chịu chung cái khổ vô thường nên thôi làm thêm cho nhau, mà cần giúp nhau tìm đường thoát, giúp nhau để bớt khổ, đó mới là tâm hồn cao thượng, là sống có ý nghĩa.

NhÆ° vậy hiểu rõ vô thường giúp cho người ứng dụng vào cuá»™c sống được bá»›t khổ an vui và đầy đạo lý. Tuy nhiên đó má»›i là chiều tiêu cá»±c, tiến lên chiều tích cá»±c của lý vô thường càng thấy ý nghÄ©a rất vi diệu. 

IV. BIẾT VÔ THƯỜNG, QUÝ TIẾC THỜI GIAN, TINH TIẾN TU HÀNH 

Phật nói vô thường không phải khiến người buông xuôi chán đời, ngồi chờ chết. Người nghiên cứu đạo Phật má»™t mặt, đôi khi hiểu lầm đạo Phật là bi quan tiêu cá»±c là chÆ°a hiểu hết đạo Phật. Ở đây, người học đạo, thấu rõ thế gian vô thường, má»™t ngày qua là không tìm lại được, hôm nay ngồi đây, ngày mai chÆ°a chẵc còn ngồi thế này; nhân duyên tốt lành hôm nay gặp được đâu dá»… gặp lại lần thứ hai? Người xÆ°a có câu:”Không thẻ tắm hai lần trong má»™t dòng sông”, thì tại sao mình lại phung phí thời gian vô ích ? 

Hôm nay còn khỏe mạnh, ngày mai đâu chắc được? Hoặc bệnh hoạn, suy yếu, tinh thần sẽ yếu đi, việc muốn làm cũng không làm được. Rồi bất chợt nhắm mát ra đi, lấy gì bảo đảm để ra đi an ổn? Tổ Qui Sơn Linh Hựu đã nhắc trong bài Cảnh Sách:”Tiền lộ mang mang, vị tri hà vãng?”. nghĩa là,” đường mờ mờ mịt mịt chẳng biết đi về đâu?”. Thật là đau đớn! Thật là hoang mang! Do đó, mỗi người phải tận dụng hết thời gian quý báu đang có để học, để tu, để hành, tạo công đức lành giúp cho mình có được ít nhiều quả lành cho ngày ra đi.

Khóa lá»… buổi chiều trong chùa thường có bài kệ nhắc nhở tu hành: 

                    Thị nhật dÄ© quá 
                    Mạng diệc tùy giảm 
                    NhÆ° thiểu thủy ngÆ° 
                    TÆ° hữu hà lạc? 
                    Đại chúng! 
                    Đương cần tinh tấn 
                    NhÆ° cứu đầu nhiên 
                    Thận vật phóng dật! 

                            *** 
                    Ngày nay lại đã qua rồi 
                    Mạng căn huyết mạch lần hồi kho khao 
                    Dường nhÆ° cá cạn ở ao 
                    Khổ thêm thì có, chút nào vui đâu ? 
                    Cần tu tợ lá»­a cháy đầu 
                    Đừng cho sái buổi nhÆ° chầu đề vÆ°Æ¡ng 
                    Thân này mỏng mỏng mảnh không thường 
                    Sá»›m còn tối mất lo phÆ°Æ¡ng cứu mình 

Đó là chÆ° Tổ nhắc nhở người tu, má»—i khi chiều đến, là má»™t ngày đã trôi qua, tức mạng sống của mình cÅ©ng theo đó mà rút ngắn dần, trong khi đó công phu tu hành của mình thì sao? Có tiến được gì chÆ°a? Phải tâm tâm niệm niệm ghi khắc thống thiết, khẩn cấp công phu không dám bê trá»…, biếng lười, giống nhÆ° lá»­a rá»›t trên đầu, phải phủi ngay không cho chần chờ, hẹn hò, lần lá»±a. 

Thiền sÆ° Y Am Quyền má»—i khi chiều xuống liền tá»± rÆ¡i nÆ°á»›c mắt than:”Ngày hôm nay lại cÅ©ng chỉ thế ấy trôi qua suông, chÆ°a biết ngày mai công phu của ta sẽ thế nào?”. 

Người xÆ°a cÅ©ng có câu:"Lúc hoàng hôn xuống chá»› tá»± hào cho ngày mai bạn sẽ thức dậy nhÆ° thường lệ!". 

Rõ lý vô thường càng thấy thời gian chúng ta hiện có mặt ở đây rất là quý báu, do đó phải biết quý tiếc nó, phải sống cho xứng đáng không để phung phí thời gian trôi qua suông, sau ăn năn không kịp. 

Ở Nhật Bản có câu chuyện Ngài Thân Loan đi xuất gia rất hay. Lúc lên 9 tuổi, Sư quyết tâm xuất gia, đến cầu Hòa thượng Từ Trấn cạo tóc. Từ Trấn hỏi:

- Con còn nhỏ tuổi thế này, vì sao muốn xuất gia? 

Thân Loan đáp: 

- Tuy con má»›i 9 tuổi mà cha mẹ đã mất hết, con chẳng hiểu”Vì sao con người quyết phải chết? Vì sao nhất định phải chia lìa cha mẹ?”, do đó mà tìm cho thấu đạo lý này nên con nhất định muốn xuất gia. 

Ngài Từ Trấn rất tán thành chí nguyện của SÆ°, bảo: 

- Tốt, ta đã tỏ rõ rồi! Ta đồng ý thâu con làm đệ tá»­, nhÆ°ng mà hôm nay tối quá rồi, đợi sáng sá»›m mai ta sẽ cạo tóc cho con. 

Thân Loan nghe xong, chẳng bằng lòng, bèn thÆ°a: 

- Bạch Thầy! Dù rằng thầy bảo sáng sớm ngày mai cạo tóc cho con, nhưng conthật là tuổi nhỏ không hiểu biết, chẳng thể bảo đảm quyết tâm xuất gia của chính mình có thể kéo dài đến sáng mai chăng? Hơn nữa, bạch thấy! Thầy tuổi đã cao, thầy cũng chẳng thể bảo đảm sáng mai khi dậy khỏi giường là còn sống chăng?

Ngài Từ Trấn nghe xong, vỗ tay khen ngợi và rất hoan hỷ bảo:

- Đúng! Lời con nói hoàn toàn không sai. Ta cạo tóc cho con liền đây vậy. (Tinh Vân Thiền Thoại) 

Câu chuyện nhắc nhở cho người phải biết sá»± vô thường luôn ở sẵn bên mình, nên rất phải quý tiếc hiện tại, sống đúng ý nghÄ©a. Đó là má»™t tiếng trống thúc giục người tiến tá»›i, vÆ°Æ¡n lên, không phải buông xuôi tiêu cá»±c. 

V. BIẾT VÔ THƯỜNG VƯƠN LÊN LÀM VIỆC LÀNH KHÔNG CHÁN 

Không phải thấy vô thường ròi buông xuôi mặc kệ cho thế gian, khổ vui không cần biết tới, hoặc khoanh tay ngồi yên, vì tất cả vô thường mộng ảo mà! Đó là lầm! Tại sao?

Bởi mình biết rồi nhÆ°ng phải thÆ°Æ¡ng người chÆ°a biết, nhá»› đến còn bao nhiêu người đồng cảnh ngá»™ mình lúc trÆ°á»›c, bỏ họ sao? NhÆ° người tỉnh, thấy kẻ còn Ä‘ang má»™ng la hét khổ sở, mình đành ngồi nhìn họ mÆ¡ khổ sở sao? Phải đánh thức cho họ chá»›! Cho nên Bồ Tát dù biết thế gian là vô thường má»™ng ảo mà vẫn phát tâm luôn Ä‘á»™ chúng sinh không ngừng nghỉ. 

Má»™t mặt tích cá»±c nữa, nhờ vô thường mà mọi vật má»›i có phát triển, nhÆ° con người có lá»›n lên, học hành có tăng tiến, từ không biết chữ tá»›i biết chữ và hiểu rá»™ng. 

Nhờ vô thường má»›i có chúng sinh thành Æ hật, có chuyển me thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề, không thì, chúng sinh cố sđịnh là chúng sinh, mê cố định là mê mãi, dù tu hành cÅ©ng thế thôi. 

Do tham sân si cũng vô thường nên có thể chuyển hóa nó, do đó mới có tu để chuyển xấu thành tốt, chuyển mê thành giác, chuyển phiền não thành Bồ đề. Đó là tạo một niểm tin vững mạnh giúp cho người vươn lên, là con đường thăng hoa tiến triển. Nếu mọi thứ là cố định thì hết tu! Vì tu cũng không làm gì khác hơn được.

Có vị nông dân đến thưa với thiền sư Bàn Khuê:

- Con có tật nóng bẩm sinh, xin thầy chỉ cho cách phải làm sao sửa đổi?

Sư bảo:
Ông hãy Ä‘em ra đây ta xem, ta sẽ sá»­a đổi cho! 

Vị nông dân thưa:

- Bạch thầy, ngay đây không thể đem ra được.

Sư hỏi:

- Vì sao?

Nông dân đáp:

-Nó bất thường lắm, đụng việc nó mới phát sinh.

Sư kết luận:

- Rồi! Nó không phải là cái bẩm sinh của ông. (Nếu nó có thật, ông có thể trình ra cho ta xem bất cứ lúc nào, ông hãy nghĩ kỹ lại xem!). Đụng chuyện mới có, vậy là do ông tạo ra, sao lại đem lỗi lầm gán cho cha mẹ, thật quá bất công!

Cho thấy, nóng giận không phải là cái cố định sẵn có, mà nó là cái do duyên sinh, đợi gặp việc mới có, có rồi cũng qua, nên cũng vô thường và có thể chuyển hóa.

Từ thấy rõ lý vô thường , người học đạo ở trong đó mà vươn lên, tìm cách giải thoát, vượt ra và làm chủ trở lại tức là sống bình an trong vô thường. Không phải biết vô thường rồi ngồi khoanh tay chờ chết! Bởi vậy, Bồ tát biết vô thường mà cười hoài và luôn lăn mình trong đó để độ người. Vì thấy rõ mọi việc vô thường, thân này cũng tạm bợ, không có gì đáng kể!

                Thiền sÆ° Vạn Hạnh sắp tịch có bài kệ:
                Thân nhÆ° Ä‘iện ảnh hữu hoàn vô
                Vạn má»™c xuân vinh thu hữu Ä‘á»™
                Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
                Thịnh suy nhÆ° lá»™ thảo đầu phô.

Nghĩa:

                Thân nhÆ° Ä‘iện chá»›p có rồi không
                Cây cỏ xuấn tÆ°Æ¡i thu héo tàn.
                Mặc cuá»™c thịnh suy không sợ hải
                Thịnh suy ngọn cỏ hạt sÆ°Æ¡ng đông.

Thiền sư thấy rõ thân này vô thường tạm bợ như ánh điện chớp. Cảnh vật cũng vậy, không có gì dừng trụ, kiên cố. Vậy thì sự thịnh suy ở đời cũng đâu có gì quan trọng? Thân còn không chắc chắn gì kia mà! Do đó, Thiền sư sống vững vàng trước mọi sự thịnh suy thay đổi của cuộc đời. Nghĩa là, các Ngài làm chủ trở lại trong vô thường.

VI. Ý NGHĨA SÂU XA CỦA VÔ THƯỜNG

Tiến lên một bước nữa là ý nghĩa sâu xa của vô thường. Chỗ vi diệu của Phật pháp là ở đây. Nói vô thường nhưng nếu chỉ dừng ở ngang đó thì Phật pháp chưa thật sâu mầu, chính Phật nói vô thường để ngầm nhắc người, khéo nhận rõ cái chân thật hằng hữu không thuộc vô thường và không lầm với vô thường . Đó mới là chỗ sống chân thật an ổn, là chỗ đến của Phật pháp. Chúng sinh mê chỗ này mới theo vô thường mà chịu khổ. Ngộ trở lại nó, là quay về cội nguồn chân thật, là con đường xuất thế gian.

Có đoạn nhân duyên Tổ Thương Na Hòa Tu hỏi Ngài Ưu Ba Cúc Đa:

- Ngươi bao nhiêu tuổi ?

Ưu Ba Cúc Đa đáp:

- Con mười bảy tuổi.

- Thân ông mười bảy tuổi hay tánh ông mười bảy tuổi?

- Tóc Hòa thượng đã bạc, là tóc bạc hay tâm Hòa thượng bạc?

- Tóc ta bạc chẳng phải tâm ta bạc.

- Thân con mười bảy tuổi, chẳng phải tánh con mười bảy tuổi.

Trong đây ngầm chỉ ra ý nghĩa sâu xa trong vô thường đó rồi. Cái có tuổi tác, có đen bạc, già trẻ tức là vô thường, là thuộc sinh diệt. Còn cái không tuổi tác, không già trẻ, đen bạc thì nó đâu thuộc vô thường sinh diệt. Tại sao mọi người lại mê cái đó để sống theo cái vô thường kia? Thiền tông thường đánh thức người phải tỉnh lại chỗ này. Song điểm khó là, nó vượt ngoài sự hiểu biết của phàm tình nên nhiều người khó tin. Tuy nhiên không vì người chẳng tin mà nó thành không có. Mà dù cho người có tin hay chẳng tin, nó vẫn luôn hiện hữu đó thôi!

Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật đã chỉ cho vua Ba Tư Nặc thấy trong thân sinh diệt có tánh không sinh diệt. Phật bảo vua:

- Đại vương, thân ông hiện đang sống đây, nay tôi hỏi ông: Thân thịt này của ông là đồng như kim cang thường còn chẳng hoại hay sẽ bị biến hoại?

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, thân con hiện nay đây, rốt cuộc cũng thay đổi và hoại diệt.

Phật bảo:

- Đại vương, thân ông chưa hoại diệt, làm sao biết phải diệt?

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường biến hoại này của con đây tuy chưa diệt, nhưng con xem hiện tiền mỗi niệm dời đổi mãi mãi không dừng, như lửa thành tro lần lần tiêu mất, vì dứt mất không dừng nên con biết thân này quyết định phải theo nó mà diệt mất.

Phật nói:

- Đúng vậy, Đại vương! Nay ông đã già yếu, dáng mạo so với lúc còn bé thế nào?

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, xưa kia khi còn bé thì da dẻ hồng hào, đến tuổi trưởng thành khí huyết đầy đủ, nay tuổi già hình sắc cũng theo đó mà già yếu khô gầy, tinh thần tối tăm, tóc bạc mặt nhăn, s8áp chết chẳng còn bao lâu. Như thế, đâu thể so sánh với khi còn trẻ mạnh.

Phật bảo:

- Đại vương, thân thể của ông đâu phải già liền?

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, nó biến hóa thầm thầm thay đổi, con thật chẳng biết, lạnh nóng đổi dời, lần lần cho đến ngày nay. Vì sao? Vì lúc con hai mươi tuổi, tuy tuổi còn nhỏ nhưng nhan sắc đã già hơn khi lên mười, đến ba mươi tuổi lại già hơn năm hai mươi tuổi; đến nay sáu mươi hai tuổi so với lúc năm mươi tuổi, rõ ràng khi năm mươi tuổi sức lực còn cường tráng hơn. Bạch Thế Tôn, con thấy nó thầm thầm dời đổi, tuy cái già nua này thay đổi giới hạn trong mười năm, nhưng nếu con suy nghĩ kỹ hơn, chẳng những nó thay đổi trong những mười năm, hai mươi năm mà thực nó thay đổi từng năm, từng tháng; chẳng những thay đổi từng tháng, mà nó thay đổi từng ngày, và xét cho cùng nghĩ cho kỹ thì nó thay đổi trong từng sát-na, một niệm không dừng. Thế nên con biết thân này trọn phải theo sự biến đổi và hoại diệt.

Phật bảo:

- Đại vương, ông thấy sự biến hóa đổi thay không dừng nên ngộ biết thân ông hoại diệt, vậy chính khi hoại diệt, ông có biết trong thân có cái gì chẳng hoại diệt chăng?

Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật.

- Thật con chẳng biết.

Phật bảo:

- Nay tôi chỉ cho ông tánh chẳng sinh diệt. Đại vương, khi ông được mấy tuổi thì thấy nước sông Hằng?

Vua đáp:

- Con được ba tuổi, mẹ con dẫn đến lễ ra mắt thần Kỳ Bà Thiên, điều ngang qua dòng sông này, khi ấy con được thấy nước sông Hằng.

Phật bảo:

- Đại vương, như ông đã nói: Khi hai mươi tuổi đã già hơn lúc mười tuổi, cho đến sáu mươi tuổi, năm tháng, ngày giờ, niệm niệm dời đổi. Vậy khi ông ba tuổi thấy sông Hằng này, đến mười ba tuổi, cái thấy sông Hằng ấy thế nào?

Vua đáp:

- Như khi ba tuổi rõ ràng không khác, và đến nay con đã sáu mươi hai tuổi, cái thấy vẫn không khác.

Phật bảo:

- Nay ông tự cảm thương tóc bạc mặt nhăn, mặc ông nhất định là nhăn hơn lúc trẻ, vậy cái thấy hiện nay xem thấy sông Hằng, cùng với khi xưa còn trẻ xem thấy sông Hằng, cái thấy ấy có già, có trẻ chăng?

Vua đáp:

- Bạch Thế Tôn, không vậy.

Phật bảo:

- Đại vương, mặt ông tuy nhăn mà tánh thấy này chưa từng bị nhăn. Cái bị nhăn thì biến đổi, còn cái chẳng bị nhăn thì không biến đổi. Cái biến đổi thì phải chịu hoại diệt, cái chẳng biến đổi kia vẫn không sinh diệt, làm sao trong ấy lại nhận chịu cái sinh tử của ông mà ông còn dẫn lời của bọn Mạt-già-lê kia bảo rằng, thân này sau khi chết là hoàn toàn mất hẳn?

Như vậy Phật đã chỉ rõ, cái gì có vô thường biến đổi thì có hoại diệt, còn cái không biến đổi thì đâu từng hoại diệt! Tức ngầm chỉ cái không sanh diệt nằm sẵn trong cái sanh diệt mà vua từng sống trong đó nhưng không biết. Chúng ta cũng như thế, nên Phật gọi là mê. Bởi mê nên ban đầu Phật chưa thể chỉ ngay cái không sinh diệt, mà phải chỉ cái vô thường sanh diệt trước để người thấy rõ không lầm, rồi mới chỉ ra cái kia. Do đó, tuy nói vô thường mà ý Phật là ở chỗ kia, người khéo lanh lợi thầm nhận ra ngay. Và sống được chỗ này là tự giải quyết xong cái khổ vô thường.

Đây dẫn bài kệ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý để sáng tỏ thêm ý trên:

                Xuân khứ bách hoa lạc
                Xuân đáo bách hoa khai
                Sá»± trục nhãn tiền quá
                Lão tùng đầu thượng lai
                Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
                Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Nghĩa:

                Xuân Ä‘i trăm hoa rụng
                Xuân đến trăm hoa cười
                Việc đời qua trÆ°á»›c mắt
                Trên đầu già đến rồi
                Chá»› bảo xuân tàn hoa rụng hết
                Đêm qua sân trÆ°á»›c má»™t cành mai.

Hai câu đầu, thiền sư chỉ ra cảnh vật vô thường qua hình ảnh xuân đến xuân đi, hoa nở hoa tàn. Hai câu kế, chỉ ra con người vô thường, việc đời cứ trôi qua, trôi qua trước mắt, nhìn lại đầu đã bạc, cái già đã đến. Một thời oanh liệt đã qua, giờ đây chân chùn gối mỏi, đi đứng khó khăn, không tự cảm thương sao? Song, người tu hành không dừng ngang đó, mà còn nữa… Xuân tàn, hoa rụng, người già cỗi, mọi sự đều vô thường, nhưng trong đó còn có một cái: Cái gì?

“Một cành mai trước sân đêm qua”.

Ai biết cành mai gì? Chớ hiểu là cành mai già khẳng khiu, có hoa vàng năm cánh, tám cánh… Mà chính là CÀNH MAI BẤT DIỆT TRONG TÂM. Ai cũng đều có sẵn một cành mai ấy trong tâm, muôn đời vẫn còn đó, đúng lúc, gặp thời tiết nó sẽ trổ hoa trong con mắt ai kia! Mắt ai thấy được cành hoa này?

Trong đây có ai cần thấy chăng? Nhưng phải thấy bằng gì? Chớ dùng hai tròng mắt này! Phải mở con mắt thứ ba kia! Mùa Xuân viên miễn là đây.

VII. TÓM KẾT

Một lý vô thường này mà quán kỹ, thấy sâu và ứng dụng đúng đắn, là đã mở cho mình con đường giải thoát khổ đau, thắp sáng trí tuệ lên giữa thế gian này, không phải chuyện thường.

Biết rõ vô thường, rồi vươn lên để thoát khỏi vô thường và làm chủ trở lại trong vô thường, đó là người trí được Phật khen ngợi.

Một điểm nữa, khi quán sâu vô thường tức là phát tâm bồ đề rồi. Như trong Tập Học Đạo Dụng Tâm của Thiền sư Đạo Nguyên có đoạn nói về phát tâm bồ đề như sau:

“Tâm bồ đề phần nhiều gọi là nhất tâm. Tổ sư Long Thọ nói: “Chỉ quán tâm sinh diệt vô thường của thế gian, cũng gọi là tâm bồ đề”. Vậy thì tạm nương nơi tâm này có thể cho là tâm bồ đề chăng? Thực đấy! Khi quán vô thường thì tâm ta đây chẳng sinh, niệm danh lợi chẳng khởi, lo sợ thời gian qua nhanh chóng, do đó gấp rút tu hành như cứu lửa cháy đầu; nhìn lại thân mạng không bền chắc, do đó tinh tiến quên cả mỏi mệt. Dù nghe tiếng thần Khẩn-na-la hay chim Ca-lăng-tần-già cũng như gió chiều thổi qua tai vậy thôi. Dẫu thấy mặt mày Vương Tường, Tây Thi cũng như sương sớm che mắt. Đã lìa sự trói buộc của thanh sắc, tự hợp đạo lý quá rồi vậy!

Tức do quán vô thường mà lo tinh tiến tu hành gấp rút, không dám buông lung giải đãi, không để tâm chạy theo thanh sắc, là hợp trở về tính giác. Người lanh lợi, ngay đó tự sáng tỏ tâm tính, tức mở tâm bồ đề chứ gì?

Như vậy một lý vô thường này, nếu người nhận sâu, thấy tột là đã giúp mình tiến xa trên con đường giác ngộ không thể nghĩ bàn. Người học đạo chân chính không thể xem thường! Điều quan trọng là: Hiểu và phải Hành.

Thích Thông Phương
(Thiền Viện Thường Chiếu)

Trang:  1  Send the topic Print 
« previous next »